Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

Ải Nam Quan


Huỳnh Văn Úc

<= Ảnh: Trấn Nam quan
Ải Nam Quan có từ thời nhà Hán, thời đó gọi là Úng Kê Quan. Đến đời vua Gia Tĩnh nhà Minh (cai trị Trung Quốc từ năm 1521 đến năm 1566) đổi tên là Trấn Nam Quan, ở đó có một công trình xây dựng gọi là Đài Ngưỡng Đức hai bên tả hữu lợp bằng cỏ. Năm 1774 quan Đốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Đang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch, lợp ngói. Đời nhà Thanh đến năm Ung Chính thứ ba (1725) án sát tỉnh Quảng Tây tu bổ lần nữa, các công trình xây gạch dựa theo chân núi, cửa quan ở quảng giữa có biển đề “Trấn Nam Quan”. Cửa này có khóa, chỉ khi nào có công việc giao dịch giữa sứ bộ hai nước mới mở. Bên trên cửa quan có trùng đài, treo biển đề bốn chữ “Trung ngoại nhất gia”. Phía bắc cửa quan có “Chiêu đức đài”, phía nam cửa quan có “Ngưỡng đức đài” dành cho sứ bộ nước Nam làm chỗ nghỉ chân.

Năm 1407 Nguyễn Phi Khanh bị tướng nhà Minh là Trương Phụ bắt và giải về Trung Quốc. Nguyễn Trãi vừa đi theo cha vừa khóc đến Ải Nam Quan. Đây là nơi hai cha con phải chia tay nhau. Năm 1937 nhà thơ Hoàng Cầm-lúc ấy mới mười sáu tuổi viết vở kịch thơ “Hận Nam Quan” mô tả cảnh chia tay đẫm nước mắt của hai cha con Nguyễn Trãi. Tôi xin trích sau đây một đoạn:

- Nghe cha nói tương lai đầy ánh sáng
Khiến lòng con bừng tỉnh một cơn mê,
Quỳ lạy cha, cha lên đường ảm đạm
Rời Nam Quan theo gió con bay về.

- Ôi! Sung sướng trời cao chưa nỡ tắt
Về ngay đi nhớ hận Nam Quan,
Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt
Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.

“Không được đụng tới Việt Nam” là tuyển tập 24 truyện ngắn và bút ký kể về những chiến công của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh ở biên giới phía bắc bắt đầu từ ngày 17/2/1979 được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 1979. Tôi xin tóm tắt sau đây những gì viết trong bút ký “Hữu Nghị Quan”. Cuối những năm thập niên 1950 sang đến đầu thập niên 1960 Trung Quốc trồng cây dọc theo biên giới hai nước. Thông, phi lao, bạch đàn, cao su tạo nên một bức tường xanh. Bức tường xanh nó có chân, nó biết đi do người trồng cố ý trồng lấn sang phía Việt Nam hoặc do gió mang hạt giống bay về phía nam. Cây xanh mọc đến đâu là biên giới Trung Quốc đến đó. Bằng biện pháp này họ đã xâm lấn đến hàng trăm hecta. Mờ sáng ngày 17/2/1979 hàng trung đoàn quân Trung Quốc không đi qua Hữu Nghị Quan mà chọc thủng bức tường xanh rồi từ các cao điểm đánh xuống các bản Cò Luống, Nà Pàn. Các chiến sĩ ta ở Hữu Nghị Quan luôn luôn cảnh giác, không bị bất ngờ, vào trận đĩnh đạc, quả cảm và thông minh. Các cụm xe tăng, nơi tập trung bộ binh, các trận địa pháo, cối và ĐKZ của địch bố trí ở các cao điểm ẩn trong rừng thông bị ta ghìm đầu ngay từ khi khởi chiến. Trận đánh ở chốt Nà Pàn diễn ra ác liệt. Anh Mươi, đồn trưởng ở chốt kể lại: “Chúng tôi chẳng dại gì co cụm ở đồn mà bung ra khắp địa bàn, vì vậy hỏa lực phủ đầu của chúng không có tác dụng. Đến lúc xe tăng và bộ binh địch ào lên, anh em mình chững chạc đánh trả. Trận ấy chúng chết 400 tên, một xe tăng và hai xe quân sự bị bắn cháy, năm con ngựa bị giết. Ta thu 1 trung liên, 5 AK, 3 CKC, 1 ống nhòm và 1200 viên đạn”. Trên đồi 371 ta có một tiểu đội giữ chốt. Sau 30 phút hỏa lực bắn thẳng của những khẩu ĐKZ của địch đặt sát Hữu Nghị Quan, hai đại đội địch hùng hổ xông lên. Trận đánh không cân sức kéo dài bốn tiếng đồng hồ mà chốt vẫn được giữ vững.

Ngày 30/12/1999 tại Hà Nội hai ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch của Việt Nam và Đường Gia Triền của Trung Quốc chính thức ký “Hiệp ước biên giới trên đất liền”. Bản Hiệp ước này được Quốc hội Trung Quốc thông qua ngày 29/4/2000, Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 9/6/2000 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 6/7/2000. Nội dung của Hiệp ước này gồm hơn 30 trang A4 với cỡ chữ bình thường do Ủy ban Biên giới Quốc gia công bố, có thể truy cập dễ dàng trên trang biengioilanhtho.gov.vn. Khổ một nỗi tôi là người dốt địa lý nên mù tịt về tên các cao điểm cũng như địa điểm có trong văn bản. Vì vậy tôi không thể tự trả lời cho mình câu hỏi: “ Cái địa điểm mà Nguyễn Phi Khanh chia tay với Nguyễn Trãi, cái công trình xây dựng Trấn Nam Quan bằng gạch lợp ngói của Đốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Đang, rồi thì Chiêu đức đài và Ngưỡng đức đài ở Trấn Nam Quan do quan án sát tỉnh Quảng Tây cho xây vào năm Ung Chính thứ ba (1725) đời nhà Thanh, những công trình ấy bây giờ còn nằm ở biên giới Việt Trung hay không? Hay là thuộc về lãnh thổ nước nào? Tầm bắn thẳng của ĐKZ cỡ nòng 82 là 390 mét. ĐKZ của địch đặt sát Hữu Nghị Quan rót vào chốt của ta đặt trên đồi 371, vậy chốt này nằm cách Hữu Nghị Quan không đến 400 mét. Cái chốt ấy bây giờ nằm trên lãnh thổ nước nào? “. Rất mong quý vị học giả tài cao học rộng chỉ giáo, tôi vô cùng biết ơn.

HVU

Tác giả gửi cho NTT blog



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét