Phần 1:
Buổi sinh hoạt nhỏ với ý nghĩa lớn
Ngày 21/1/2015, tại một quán cafe ở Hà Nội, Chi hội Miền Bắc, Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam tổ chức cuộc Tọa đàm về Quyền lập Hội.
Tham dự buổi tọa đàm, ngoài các thành viên của Chi hội, lần đầu tiên Ts Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội từ Sài Gòn ra tham dự. Ngoài ra, buổi tọa đàm còn đón nhận đại biểu của Hội anh em Dân Chủ và một số khách ngoại giao của các Đại sứ quán Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh và Thụy Điển.
Mở đầu buổi Tọa đàm, Ts Phạm Chí Dũng đã chúc mừng Chi hội Miền Bắc vẫn giữ được nếp sinh hoạt đều đặn và ngày càng có chất lượng. Ông cũng nêu lên những nhận định về tình hình trong nước và quốc tế, những thuận lợi và khó khăn của Hội nhà báo Độc lập Việt Nam thời gian qua, cũng như hướng đi sắp tới của Hội và những việc cụ thể cần làm.
Tại buổi tọa đàm đã có những ý kiến sôi nổi của các thành viên cũng như các chuyên gia, các quan khách ngoại giao được thẳng thắn đề cập và mổ xẻ về tình hình ở Việt Nam, những khó khăn và những vấn đề đối với Quyền lập hội của người dân Việt Nam cũng như sự quan tâm của các chính phủ đối với quyền con người, trong đó có Quyền lập Hội.
Với một Hội đoàn được thành lập cách đây hơn một năm của những người có tâm huyết muốn cất lên tiếng nói độc lập, nói lên tiếng nói sự thật, tiếng nói của người dân, ra đời trong hoàn cảnh ngặt nghèo bị đe dọa bằng nhiều cách, khủng bố bằng nhiều hình thức... Thì việc tổ chức cuộc hội đàm về Quyền lập hội ngay giữa Thủ đô có một ý nghĩa rất lớn lao.
Quyền tự do lập hội từ lời nói đến thực tế ở Việt Nam
Có lẽ từ thời tiền sử của loài người, việc kết giao, lập thành hội nhóm nhằm để chống lại và khắc phục những ảnh hưởng của thiên nhiên, môi trường, xã hội... là một nhu cầu minh nhiên và cơ bản của loài người.
Đến thời hiện đại, cả thế giới đặt vấn đề quyền con người lên hàng trọng tâm của sự quan tâm, thì Quyền tự do lập hội càng được tôn trọng. Trong lời nói đầu của Nghị quyết 15/21 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc ghi rõ: "Tự do hội họp và tự do lập hội là những quyền quan trọng giúp thực thi nhiều quyền dân sự, chính trị, cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác. Hai quyền này là "những thành tố thiết yếu của một xã hội dân chủ" vì nó cho phép các thành viên "bày tỏ quan điểm chính trị, tham gia vào các mục tiêu văn học và nghệ thuật và các hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa khác, tham gia vào việc thờ phụng tôn giáo và các niềm tin khác, hình thành và gia nhập các tổ chức công đoàn và hợp tác xã, bầu chọn những người lãnh đạo đại diện cho mình và buộc họ phải chịu trách nhiệm".
Trong khi đó, Việt Nam không chỉ là một thành viên LHQ mà còn là một thành của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc. Thế nhưng, Quyền lập hội ở Việt Nam cho đến thời điểm này ra sao?
Trước hết, chúng ta đi từ lời nói của những người Cộng sản Việt Nam về quyền này của công dân.
Ngay trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, nghĩa là cách đây hơn 70 năm, Hồ Chí Minh đã dõng dạc tố cáo: "Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào".
Với những lời lẽ đanh thép đó, người dân Việt Nam những đã tưởng rằng kể từ này, những quyền lợi về tự do, dân chủ và nhân đạo, chính nghĩa hơn(!)
Bản Hiến pháp năm 1946 khẳng định quyền của công dân, trong đó có các quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật".
Điều 70 của Hiến pháp 1992 quy định: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".
Thế rồi, các bộ luật Hình sự cũng có những điều khoản như thật về "Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, quyền hội họp, lập hội của công dân" như Điều 124 BLHS năm 1985, Điều 129 BLHS năm 1999.
Với những điều được ghi bằng giấy trắng, mực đen trên bản Hiến pháp, với những điều luật trong bộ luật Hình sự như vậy, nhìn từ bên ngoài, hẳn mọi người đều nghĩ rằng ở Việt Nam, quyền tự do lập hội của người dân hẳn rất được tôn trọng và thực thi triệt để.
Nhưng!
Hỡi ôi, đó chỉ là những văn bản và lời nói của người Cộng sản. Để thực thi quyền tự do Lập hội của người dân, hãy nhìn vào thực tế hiện nay. Đa số những quyền lợi cơ bản của người dân đều đã bị đánh tráo khái niệm và chơi trò tháu cáy.
Hầu hết, các điều khoản trong Hiến pháp hoặc bất cứ văn bản nào của nhà nước nói về "Quyền" của người dân đều được thòng theo mấy chữ: "theo quy định của pháp luật".
Vậy cái "quy định của pháp luật" đó là gì? Sẽ là không có bất cứ quy định nào, để người dân không thể thực hiện được những quyền đó như quyền biểu tình, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do lập hội, tự do hội họp... và nhà cầm quyền sẵn sàng huy động bạo lực để trấn áp vì "chưa được phép". Sẽ là những văn bản nhằm hạn chế việc thực thi quyền của người dân, mà nhiều khi nhà nước bất chấp cả những ý nghĩa của câu chữ, của văn bản để áp đặt bằng được sự cai trị độc tài của mình như cái Nghị định 38CP quy định tập trung đông người nơi công cộng phải xin phép - mà đông người có nghĩa là từ 5 người trở lên - một sự hài hước sẽ trở thành kinh điển chắc chỉ có ở Việt Nam.
Cho đến nay, tháng 11/2015 các quyền cơ bản của công dân được ghi trong Hiến pháp từ 1946, nghĩa là đã 70 năm nay, vẫn là một món nợ của đám đầy tớ đối với ông chủ Nhân dân. Hầu hết những quyền như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do lập hội và hội họp, quyền biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng... Tất cả đều chưa có luật, tất cả đều phải chờ.
Và vì chưa có luật, nên công dân không được tự do thực hiện những quyền của mình mà Hiến pháp đã ghi nhận từ cách đây 70 năm, nghĩa là gần 2/3 thế kỷ.
Cũng vì chưa có luật, do vậy nhà cầm quyền muốn hành xử cách nào, làm gì với quyền đó của công dân, đều phụ thuộc vào ý thích của hệ thống cầm quyền. Họ nghiễm nhiên coi như đó là một đặc ân, để họ có thể ban phát hoặc cấm đoán, đàn áp... tùy thích.
Cũng vì chưa có luật, nên những điều ghi trong Hiến pháp chỉ là những thứ để trang trí cho bộ mặt của nhà nước luôn rêu rao là "của dân, do dân, vì dân" với đám cán bộ là "đầy tớ của nhân dân" trước cộng đồng quốc tế.
Cũng vì chưa có luật, nên các hội, nhóm có thể thành lập và có thể tự phát miễn là ngoan ngoãn nằm trong sự quản lý theo ý thích của nhà nước. Điều này chỉ có tác dụng để nhằm cho nhà nước kể lể trước cộng đồng quốc tế rằng Việt Nam cũng có đủ cả chục ngàn hội, nhóm đấy thôi, nghĩa là quyền tự do lập hội đã được tôn trọng. Hẳn nhiên, nếu chỉ là những hội nhóm vô bổ như chim, hoa, cá, gái... thì được và chẳng cần xin phép, miễn là những hội viên đó không cần quan tâm đến chính trị, đến sự cai trị độc tài nhà nước hoặc các vấn đề với lãnh thổ, với quyền sống của xã hội và quyền công dân.
Ngược lại, những ai nhen nhúm thành lập các nhóm, hội có ý tưởng hoặc sự quan tâm đến các vấn đề có ảnh hưởng hoặc nguy cơ ảnh hưởng đến sự cai trị độc tài, lập tức được sự chú ý và các biện pháp đàn áp tàn bạo hoặc "nghiêm trị vì chưa được phép" - điều mà có nằm mơ, thì dân Việt Nam cũng chẳng bao giờ thấy cái giấy phép đó ở đâu dưới thời Cộng sản.
Cũng vì chưa có luật, nên cái gọi là "quyền tự do tôn giáo, được bảo đảm, cơ sở tôn giáo được luật pháp bảo hộ" đến mức mà hiện nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam vẫn còn bị "mượn", chiếm, cướp... đến 2.500 cơ sở mà không có bất cứ cơ sở pháp luật nào.
Duy nhất, ở Việt Nam có một tổ chức không cần có luật, vẫn có thể ngang nhiên hoạt động, tự tung tự tác, tự áp đặt lên đầu, lên cổ nhân dân cái tròng cai trị của mình. Đó là tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù Hiến pháp đã quy định rõ "đảng phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật".
Và bên cạnh đó, một số Hội, Liên hiệp Hội, Đoàn, Mặt trận... được nhà nước đẻ ra, để làm cánh tay nối dài cho Đảng CS thì nghiễm nhiên được nuôi nấng bằng tiền dân mà không ai được bàn cãi.
Hà Nội, ngày 23/11/2015
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Phần 2:
Đau thì phải đẻ, đói thì phải ăn, ngạt thì phải thở
Lẽ thường, khi Hiến pháp đã quy định rõ ràng, thì hệ thống nhà nước phải ban hành đầy đủ luật lệ để đảm bảo quyền của công dân. Thế nhưng, như trên đã nói, trừ Đảng Cộng sản là cơ quan không cần luật, vẫn ngang nhiên tự tung tự tác và tự cho mình quyền đè đầu cưỡi cổ người dân. Phần còn lại, mọi hoạt động của công dân, nếu không làm vừa ý nhà cầm quyền, đều được chú ý và trừng trị, đàn áp không thương tiếc mà cũng chẳng cần đến luật. Những bộ luật còn lại, hầu như chỉ để nhằm hạn chế quyền đó của công dân.
Thế nhưng, cũng là lẽ thường, mọi quyền cơ bản của người dân là nhu cầu cấp thiết và không thể dừng lại. Và dù đã nín nhịn và chịu đựng đến 70 năm qua, thì nhu cầu đó vẫn cứ tồn tại như một nhu cầu bản năng. Bởi lẽ, là con người, thì dù có luật hay không, họ vẫn phải sống, phải ăn uống và hít thở không khí. Nếu Hiến pháp có ghi rõ là: Công dân có quyền sống, ăn uống, hít thở "theo quy định của pháp luật" đi nữa, mà không có luật, thì công dân vẫn phải cứ sống, ăn uống và hít thở không khí.
Việc không chịu ban hành các luật lệ, tạo cho người dân thói quen hành động không theo luật lệ là trách nhiệm của nhà nước, của chính phủ và cái gọi là Quốc hội của đảng. Còn việc được hưởng các quyền của mình là việc đương nhiên như cơm ăn, nước uống và không khí hàng ngày. Chẳng ai có thể vì không có luật, nên công dân phải nhịn thở không khí.
Đã 70 năm, kể từ khi bản Hiến pháp đầu tiên ra đời, gần 60 năm, kể từ khi bản Sắc lệnh số: 102/SL-L004 ngày 20 tháng 05 năm 1957 được ban bố về quyền lập hội ra đời. Trong các văn bản đó ghi rằng: "Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định". Thế nhưng, từ đó đến nay, chính phủ, nhà nước, quốc hội... đều đánh bài lờ.
Đây là món nợ khó đòi của người dân Việt Nam dưới một chế độ luôn lấy bạo lực làm đầu.
Có lẽ đã đến lúc phải nhắc lại đến một câu nói của Hồ Chí Minh: “Trong lời tuyên ngôn của Mỹ có câu rằng: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng... Hễ chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đạp đổ chính phủ ấy đi, và gây lên chính phủ khác... ”. (Trích Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 270).
Và đến lúc, thì các Hội, nhóm vẫn phải ra đời để đáp ứng nhu cầu xã hội và công dân. Bởi đói thì phải ăn, đau thì phải đẻ. Trong bối cảnh đó, các nhóm Xã hội Dân sự và Hội nhà báo Độc lập Việt Nam ra đời cùng với các nhóm, hội khác.
Những phản ứng ban đầu của các cơ quan nhà nước thông qua báo chí quốc doanh, là sự dọa nạt, khiêu khích và thiếu thiện chí. Tuy nhiên những sự ngụy biện và lấp liếm của họ, chỉ là những phản ứng cho thấy sự lúng túng và tháu cáy của một cách làm không chính danh và một nhà nước không đàng hoàng. Tất cả những điều đó, trong thời đại Internet toàn cầu đã không có mấy tác dụng.
Và các hội, nhóm xã hội dân sự, trong đó có Hội nhà báo Việt Nam Độc lập vẫn ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển như một xu hướng không thể đảo ngược.
Những quy định không giống ai
Trước những đòi hỏi của sự hội nhập theo các định chế Quốc tế, Việt Nam đã đến lúc dù không muốn, vẫn phải đặt ra cái gọi là "luật". Thế nhưng, những cái luật đó ở Việt Nam ra sao?
Chưa cần nói đến việc thi hành trong thực tế, mà chỉ cần nói đến cách ban hành, cấu tạo Luật ở Việt Nam để hiểu một phần nào thực chất của nó là gì. Cụ thể, ở đây phân tích một vài chi tiết của Dự thảo Luật về Hội mới được khởi xướng và công bố.
Dù rằng trong các văn bản luật pháp và môi miệng quan chức nhà nước CSVN, ngôn từ "bình đẳng" luôn được nhắc đến một cách kiên trì, nhẫn nại đến mức đáng kinh ngạc. Thế nhưng như người đời thường nói: Người ta chỉ hay nhắc đến những gì người ta thiếu (!)
Ngay trong Dự thảo Luật về Hội, điều đầu tiên quy định như sau: "Điều 1, khoản 2. Luật này không áp dụng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam; tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng".
Điều đó nghĩa là gì? Với những cánh tay nối dài của Đảng CS nhưng được nuôi bằng tiền thuế của dân, cũng đều được hưởng đặc lợi như cái Đảng của mình - Không cần luật. Riêng với các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, thì ngược lại, được loại ra khỏi luật để trở thành đối tượng đặc biệt không được hưởng những điều kiện tối thiểu của một Hội.
Điều này, có nghĩa là tạo ra trong xã hội Việt Nam những nhóm hội con nuôi và con đẻ của Đảng và nhà nước. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử ngay trong các tổ chức xã hội.
Tiếp theo là những mánh lới như sợi dây thòng lọng "theo quy định của pháp luật" để tiếp tục dùng những văn bản dưới luật khống chế quyền của công dân. Hoặc vẫn tiếp tục có những quy định mơ hồ như "phương hại đến an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc"... (Khoản 2, điều 8, Dự thảo Luật về Hội) mà các cơ quan công quyền có thể suy diễn chủ quan theo ý mình nhằm kết tội công dân, thực chất là để hạn chế quyền công dân đã được mổ xẻ trong Hội thảo này.
Không chỉ có thế, những quy định trong bản dự thảo Luật về Hội được đặt ra như "Đăng ký Ban vận động thành lập Hội", "phải có đủ số người đăng ký tham gia hội tối thiểu theo quy định của Chính phủ"... rồi việc các chủ tịch chính quyền các cấp cho đến Thủ tướng phê duyệt điều lệ Hội... đều là những "biện pháp kỹ thuật" hết sức nhiêu khê và phức tạp. Điều này hạn chế cơ bản quyền được lập Hội của Công dân.
Những phức tạp, rối rắm mà cái Dự thảo này đưa ra, Tiến sỹ Nguyễn Quang A thì đánh giá: "Dự thảo tồi hơn cả mười năm trước". Và người ta kêu lên rằng: "Dự thảo luật về Hội, thực chất là nhằm ngăn cản quyền tự do thành lập Hội đoàn độc lập".
Thực chất, việc đưa ra một bộ luật như Dự thảo ở đây, chỉ là một sự thách đố và nhằm thâu tóm hầu hết những phương cách để người dân thực hiện quyền cơ bản của mình là quyền tự do lập hội. Ở đó, tất cả lại tiếp tục phải đặt mình vào bàn tay quản lý, kiềm chế và giám sát khắt khe theo ý thích của nhà cầm quyền. Các hội đoàn độc lập của người dân khó có cơ hội được thành lập, các tổ chức tôn giáo buộc đứng ra ngoài việc được công nhận các tư cách pháp nhân.
Từ xa xưa, trong chế độ Cộng sản Việt Nam vốn không có hoặc rất ít luật, mọi sự cai trị phụ thuộc vào nghị quyết, chỉ thị và hướng dẫn hoặc ý thích của các cá nhân thuộc Đảng CS. Từ ngày hội nhập, Việt Nam đã có khá nhiều bộ luật được ban hành.
Thế nhưng với những sự mơ hồ và thiếu rõ ràng, minh bạch trong các câu chữ cũng như việc thực hiện tùy tiện bằng ý chí chủ quan bởi "sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CS" các bộ luật được sinh ra nhiều khi chỉ để làm cảnh mà chưa có tác dụng thực tế.
Đặc biệt việc áp dụng luật tùy tiện và nạn đánh tráo khái niệm ngôn ngữ... đã biến các bộ luật Việt Nam như một hệ thống lưới đủ các loại cỡ khác nhau rải dưới lòng chiếc ao cạn. Chỉ đến khi nào Đảng, nhà nước cần bắt loại "cá" nào, thì loại lưới tương ứng được kéo lên. Còn lại, nếu "đàn cá" ngoan ngoãn thì cứ tha hồ tung tăng bơi lội, phá phách mà không hề sợ pháp luật. Nhất là những loại "cá" có lý lịch, thân nhân thuộc về Đảng CSVN.
Kể từ khi Sắc lệnh số: 102/SL-L004 ngày 20 tháng 05 năm 1957 về Quyền lập Hội ra đời đến nay, người dân vẫn chưa được hưởng bất cứ quyền lập hội độc lập nào. Thậm chí nhiều người đã trả giá cho việc giành quyền này của mình bằng tù tội, bằng mạng sống.
Trên thực tế, nếu bộ luật này được thi hành triệt để, thì có lẽ Nhà nước Việt Nam đã không biết bao lần phải đi tù về bộ luật này quy định:
Điều 2. ... - Không ai được xâm phạm quyền lập hội và quyền tự do vào hội, ra hội của người khác.
Điều 7. Người nào xâm phạm đến quyền lập hội hoặc đến quyền tự do vào hội, ra hội của người khác có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và bị xử phạt tù từ một tháng đến một năm.
Và chính nhà nước này, dưới sự lãnh đạo của Đảng CS, đã vi phạm trầm trọng và có hệ thống những điều luật này. Họ đã tước đi quyền lập hội của hàng trăm triệu người dân Việt Nam suốt 70 năm nay.
Sự quan tâm của Cộng đồng Quốc tế
Lẽ thường, ở các nước độc tài thì việc trao quyền cho người dân, nghĩa là nhà nước độc tài sẽ mất đi vị thế của mình trong sự cai trị. Hẳn nhiên là điều đó chẳng có một nhà nước độc tài nào muốn.
Tuy nhiên, khi muốn hội nhập vào sân chơi chung của thế giới, việc một mình một chợ, riêng mình một luật đã không còn được sự chính danh và không thể hòa nhập chung. Nhà nước Việt Nam đã dần dần phải nói đến "luật" và nói đến "quyền công dân". Thậm chí đã phải phê chuẩn tham gia các Hiệp ước quốc tế về quyền con người và các vấn đề khác. Dù lời nói và thực tế của họ luôn là một khoảng cách xa vời vợi.
Điều này nhằm đối phó với dư luận và sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Nhưng, sự quan tâm của Cộng đồng quốc tế không chỉ là vì những lời nói suông hoặc chỉ là những ngôn từ mỹ miều từ nhà nước.
Tại cuộc Tọa đàm, ông David V. Muehlke Viên chức chính trị ĐSQ Hoa Kỳ đã phát biểu:
- Chính phủ Hoa Kỳ trong mọi điều kiện đều hành động theo những tiêu chuẩn và lý tưởng về tự do tôn giáo và bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ rất thực tế và sát thực trong từng điều kiện. Chúng tôi không muốn gây ra một cuộc Cách mạng, nhưng chúng tôi xúc tiến và thúc đẩy để mọi nơi đều được phát triển về quyền con người và tự do tôn giáo.
Chúng tôi sẽ công khai với mọi người về Hiệp định TPP, trong đó có các quyền tự do lập Công đoàn độc lập và về vấn đề lao động. Hiệp định TPP là một quá trình phức tạp. Hiện nay, hai bên Hoa Kỳ và Việt Nam chưa phê duyệt, nên chưa thể nói đến những cam kết của chính phủ hai nước. Sau 2 năm, Việt Nam sẽ có khoảng 3 năm để cho các vấn đề Công đoàn độc lập và lập hội được giải quyết.
Chúng tôi cũng lưu tâm đến các Dự luật ở Việt Nam. Chúng tôi muốn biết về những sự mơ hồ cũng như các biện pháp để hạn chế các quyền công dân.
Do vậy, nếu có những vấn đề với các cơ quan Công an, nhà nước về những vấn đề này, chúng tôi đề nghị các vị thông tin kịp thời đến chúng tôi.
Đại diện Đại sứ quán Vương Quốc Anh, ông Graham Knight Trưởng bộ phận chính trị, ĐSQ Anh phát biểu:
- Tôi đã được trực tiếp nghe các vấn đề về Xã hội dân sự và quyền lập Hội ở Việt Nam. Đại sứ quán Anh rất quan tâm đến vấn đề nhân quyền, tự do báo chí và tự do lập hội cũng như các quyền dân sự, chính trị của người dân Việt Nam. Tôi hy vọng trong tương lai, chúng ta sẽ có các cuộc gặp gỡ để trao đổi với nhau về tình hình Việt Nam để hiểu hơn thực tế ở đây.
Còn ông Gustav Dahlin tuỳ viên chính trị ĐSQ Thụy Điển, dù mới đến Việt Nam được mấy ngày, cũng đã đến dự và quan tâm các vấn đề được nêu ra. Ông cảm thấy rất thích thú khi được dự cuộc tọa đàm để hiểu hơn về tình hình Việt Nam.
Tạm kết
Cuộc Tọa đàm về Quyền lập hội được tổ chức đơn giản, gọn nhẹ nhưng đã có ý nghĩa quan trọng và to lớn. Ở đó nhiều vấn đề được đặt ra, mổ xẻ giữa các thành viên trong và ngoài Chi hội Miền Bắc, Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, trước sự chứng kiến của các quan chức quốc tế quan tâm đến những quyền cơ bản của công dân Việt Nam.
Ở đó cũng đã nêu rõ những vấn đề mà người dân sẽ mắc phải khi bộ Luật về Hội được thông qua mà không có những điều chỉnh cần thiết. Nó sẽ chỉ là một chiếc dây thòng lọng nhằm thắt cổ, cột chặt quyền cơ bản này của người dân. Thực chất, đó là hành động trấn cướp công khai quyền của người dân bằng cách thiếu lương thiện.
Đây là cuộc tọa đàm công khai, mở ra nhiều điều đáng quan tâm trong môi trường xã hội Việt Nam trên một mặt trận mới: Đấu tranh trên phương diện pháp lý và xây dựng Luật, để bảo vệ quyền cơ bản của con người Việt Nam.
Hà Nội, ngày 24/11/2015
· J.B Nguyễn Hữu Vinh
rfavietnam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét