Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

Xóa lịch sử chiến tranh biên giới 1979: Sự mang ơn ngu muội

Đào Đức Thông

Chiến tranh biên giới 1979: Những hình ảnh còn mãi với thời gian

(VNTB) - Chúng ta được sống hưởng hạnh phúc, bình yên trên sự sinh hy lớn lao của những người đã khuất. Đảng & Chính quyền Việt Nam đừng làm kẻ vô ơn, bạc nghĩa và bất nhân, dẫu là trong một thời khắc nhỏ nhất.

TỔNG QUAN

Chiến tranh biên giới Việt Nam năm 1979, thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979 là một cuộc chiến ngắn (trong 1 tháng) nhưng khốc liệt giữa Cộng sản Trung Quốc và Cộng sản Việt Nam, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Cộng đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước.

Chiến tranh biên giới Việt - Trung bắt nguồn từ mối quan hệ căng thẳng từ lâu giữa hai Đảng CS, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Cộng tuyên bố hoàn thành và rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng biên.

NGUYÊN NHÂN

Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn – TBT Đảng CS Việt Nam thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống CS Liên Xô của Trung Cộng, phủ nhận quan niệm của Trung Cộng rằng chủ nghĩa bành trướng của CS Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với CS Liên Xô, Trung Cộng thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Cộng. Những điều này làm cho Trung Cộng lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam và việc bị CS Liên Xô bao vây từ phía bắc. Trong tình hình đó thì một nước Campuchia chống Việt Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Cộng sau chuyến thăm Bắc Kinh tháng 9 đến tháng 10 năm 1977 của Polpot nhằm thắt chặt quan hệ đồng minh giữa hai nước.

Chiến tranh biên giới 1979, do Trùm CS Trung Quốc- Đặng Tiểu Bình ra lệnh "dạy cho Việt Nam một bài học", để trả đũa việc Việt Nam đưa quân tình nguyện qua Campuchia ngăn chặn những hành vi diệt chủng của đồng minh Khơme Đỏ của Trung Cộng.

Để rồi sau đó 5 năm, cuối tháng 4-1984, Trung Quốc một lần nữa dùng sức mạnh quân sự đánh vào biên giới tỉnh Hà Tuyên (tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang bây giờ) kéo dài hơn 100km, từ huyện Vị Xuyên, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc mà huyện Vị Xuyên là chiến trường khốc liệt nhất.

HẬU QUẢ

Chiến tranh biên giới 1979 bùng nổ, Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

Mục tiêu của Trung Cộng là buộc Việt Nam rút quân đội ra khỏi Campuchia nhưng đã không thành, tuy nhiên cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa.

Tuy CS Việt Nam và CS Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến nhưng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và của. Cuộc chiến đặc biệt để lại nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà CS Trung Quốc và đồng minh của Trung Cộng gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao,...

Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000). Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000 quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.

Tướng Ngũ Tu Quyền, phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, tuyên bố rằng số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000. Một nguồn khác của Trung Quốc thống kê tổn thất của quân Trung Quốc là 8.531 chết và khoảng 21.000 bị thương.

Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.Russell D. Howard cho rằng quân Trung Quốc thương vong 60.000 người, trong đó số chết là 26.000, một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc. Nguồn của King Chen nói rằng riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.

Trong chiến tranh biên giới 1984 (mặt trận Vị Xuyên) khoảng 600 người là cán bộ chiến sĩ sư đoàn 356 hi sinh, 400 cán bộ chiến sĩ sư đoàn 316 và 312 của quân đội Việt Nam ngã xuống. Phần lớn hài cốt các liệt sĩ hi sinh trong trận đánh này đến nay vẫn chưa được tìm thấy và quy tập về nghĩa trang liệt sĩ.

ĐÁNH GIÁ

Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 và 1984 là hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc VN. Về bản chất, nó không khác gì các cuộc kháng chiến oanh liệt trong lịch sử như nhà Lý chống quân Tống, nhà Trần chiến thắng quân Nguyên, nhà Lê tiêu diệt quân Minh, và Quang Trung Nguyễn Huệ đánh thắng nhà Thanh.

Thế nhưng, nếu như chiến thắng của Quang Trung Nguyễn Huệ đã được ghi lại đậm nét trong lịch sử, được nhà cầm quyền và nhân dân Việt Nam tưởng nhớ hàng năm, thì cuộc kháng chiến biên giới 1979 và Mặt trận Vị Xuyên biên giới tỉnh Hà Tuyên (tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang bây giờ) cuối tháng 4-1984 đến nay dường như vẫn vắng bóng trong lịch sử VN. Nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên nơi an táng hài cốt của một số ít các liệt sĩ trong hơn 600 cán bộ chiến sĩ sư đoàn đã ngã xuống để giành lại các cao điểm 772, 685... trước quân xâm lược Trung Quốc sau hòa bình bị chính quyền nơi đây bỏ hoang vắng, quạnh quẽ.

Từ khi bình thường hóa quan hệ Việt -Trung năm 1991, ĐCS Việt Nam rất ít tổ chức kỷ niệm, hệ thống truyền thông ít đưa tin sự kiện chiến tranh biên giới tháng 2/1979 và tháng 4/1984. Trong hệ thống giáo trình chuẩn quốc gia các cấp học phổ thông, trung học, đại học và sau đại học đều không đưa 2 cuộc kháng chiến này vào. Thế hệ trẻ không biết gì về 2 cuộc chiến này.

Cho đến 37 năm sau, vài tờ báo Việt Nam mới có những dòng chữ tiếc thương và nhắc đến máu xương của những chiến sĩ, anh hùng hy sinh trong cuộc chiến tranh chống quân Trung Cộng xâm lược đầy đau thương và mất mát vào tháng 2 năm 1979 và tháng 4 năm 1984.

Vậy suốt 37 năm qua, hỏi rằng có ai đã khóc cho những nấm mồ lạnh lẽo bơ vơ của những người đã hy sinh trong chiến tranh biên giới 1979? Hay chỉ là những tiếng khóc thầm lặng lẽ của những đứa trẻ mất cha, mất mẹ, những người già mất con?

Đã 37 mùa lãng quên. Cũng ngần ấy thời gian CS Việt Nam né tránh lịch sử và những số phận mà đáng ra phải được lưu danh sử sách.

Đất nước Việt Nam có được ngày hôm nay, cũng là nhờ máu xương và lòng dũng cảm của những chiến sĩ đã hy sinh trong chiến tranh biên giới 1979. Lãnh đạo đảng và chính quyền Việt Nam đang sống hưởng hạnh phúc, tự do trên sự hy sinh của họ, trên sự mất mát của những người thân anh hùng, liệt sĩ trong 2 cuộc chiến tranh biên giới với Trung Cộng.

Vậy mà, lịch sử kháng chiến biên giới chống Trung Cộng bi hùng ấy của dân tộc lại bị phớt lờ hay đảng CS Việt Nam cố tình xóa bỏ đi? Nếu vì giữ hòa khí cho một mối quan hệ dựa vào khoảng cách địa lý gần gũi thì đó là điều không thể chấp nhận được đối với chế độ này.

Người Việt chúng ta không thể lại tiếp tục giao du một cách thâm tình với kẻ đã tàn sát dã man dân tộc mình, đã bất chấp tất cả đạo lý, pháp luật Quốc tế để làm nhục những người công dân Việt Nam trong thời điểm giai đoạn lịch sử ấy, để cướp bóc, để lấn chiếm lãnh thổ, để "dạy một bài học" cho Việt Nam. Và đến giờ bọn ấy còn chiếm biển đảo một cách ngang nhiên, tẩm hóa chất độc hại vào thực phẩm để giết nhiều thế hệ người Việt, tiêm nhiễm những văn hóa hủ bại để làm thanh niên dân Việt yếu hèn, nhu nhược...

Người Trung Quốc luôn đề cao phương châm “nước mạnh ắt bá quyền”. Vậy thì làm sao Việt Nam có thể làm anh em, đồng chí với một kẻ đầy tham vọng bành trướng, bất nhân, luôn sẵn dã tâm và luôn muốn triệt hại chúng ta mọi lúc, mọi thời, và bằng mọi cách thâm độc nhất có thể?

Phương châm 16 chữ vàng hay 4 tốt mà 2 nhà nước ký kết với nhau cũng sẽ chỉ là “ứng vạn biến”. Còn cái “dĩ bất biến” luôn phải là độc lập, chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam. Đảng CS Việt Nam không được mơ hồ lấy cái “ứng vạn biến” để thay “dĩ bất biến”.

Những người lính Việt Nam chiến đấu trong 2 cuộc chiến biên giới đã đi mãi không về, những người phụ nữ thường dân Việt bị Trung Cộng bắt làm tù binh rồi bị hãm hiếp, bị moi gan,v.v.., bị giết chết một cách dã man, những đứa trẻ ngây thơ cũng chịu chung số phận bi thảm bởi những tên lính man rợ và tàn bạo đến kinh hoàng.CS Việt Nam và CS Trung Cộng không thể và không bao giờ có thể lấy 16 chữ” “sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh” để lòe dân Việt, để xóa hết tội ác lịch sử của Trung Cộng trong chiến tranh biên giới Việt Nam. Cần đặt các quan hệ này trên một nền tảng minh bạch, không ngộ nhận, không mơ hồ.

Đành rằng những kẻ hèn mạt, kẻ bán nước, bất nhân, ngu muội thời nào cũng có. Hậu thế chúng ta phải có trách nhiệm của lương tri, của một con người đối với tiền nhân và sự thật của quá khứ.

KHÔNG THỂ MANG ƠN MÃI MỘT CÁCH NGU MUỘI

Đúng là trong cuộc 2 cuộc chiến tranh với 2 nước Pháp và Mỹ của nhân dân Việt Nam, thì CS Trung Quốc và CS Liên Xô là hai nước trong khối đồng minh xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa rất nhiều trong cuộc chiến tranh này.

Vấn đề có mang ơn hay không? Khi phân tích trong toàn diện cuộc chiến tranh chúng ta thấy rằng Trung Quốc đã viện trợ sức người, sức của cho Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa để tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng nhằm mục đích tạo Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thành một khu vực đệm để bảo vệ miền nam Trung Hoa, cho Trung Cộng tiến hành bốn hiện đại hóa trong tham vọng của Mao Trạch Đông.

Nhìn lại 2 cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Cộng tháng 2/1979 và tháng 4/1984, chúng ta thấy rõ có nên mang ơn hay không. Việc ơn nghĩa giúp đỡ, Việt Nam rất sòng phẳng, nhưng đối với tập đoàn xâm lược Bắc Kinh, với cuộc chiến tranh xâm lược 6 tỉnh phía bắc ( tháng 2 năm 1979), và dùng bọn phản động Pon pot- Ieng Sary tạo ra một gọng kềm ở biên giới phía Tây- Nam tiến hành cuộc chiến tranh diệt chủng không những đối với nhân dân Kampuchia và còn đối với nhân dân Việt Nam, thì thử hỏi Việt Nam có cần phải mang ơn Bắc Kinh mãi như thế hay không?!

Tại sao đảng và nhà cầm quyền Việt Nam cứ mãi chịu ơn Trung Cộng một cách mê muội đến mức hèn nhát?


Luật pháp VN ngày nay có luật bất thành văn nhưng ngày càng được nghiêm túc áp dụng tại các địa phương trong nước. Đó là bất cứ người Việt nào mở miệng phản đối TQ xâm lược hoặc lên tiếng đòi bảo vệ chủ quyền VN đều là những kẻ đang “phạm tội” chính trị, phản động, chống lại chế độ,v.v…và bị công an, nhà cầm quyền Việt Nam trấn áp, trừng phạt.

Sau cuộc chiến biên giới 1979, hiến pháp năm 1980 của VN có thêm điều khẳng định “Trung Quốc là kẻ thù”. Nhưng chỉ 8 năm sau, khi TQ trở thành cái phao mà CSVN mong được bám vào trong lúc gần chết đuối, thì Hà Nội bắt đầu tìm cách tẩy xoá điều này trong hiến pháp và hầu hết các chứng tích dữ kiện lịch sử. Cũng năm đó, các chiến sĩ trong trận Trường Sa đã bị Bộ Chính Trị CSVN để mặc nhiên trở thành những “bia tập bắn” cho lính TQ thẳng tay tàn sát.

Kể từ đầu thập niên 1990, đặc biệt sau hội nghị Thành Đô mà lãnh đạo CSVN xin thần phục Bắc Kinh trở lại, 2 cuộc chiến biên giới năm 1979 và 1984 đã trở thành một chủ đề cấm kị mà đảng và nhà nước CSVN không chỉ cấm người dân nhắc đến mà còn xóa luôn trong sách giáo khoa và quân sử. Những từ ngữ “nước lạ”, “tàu lạ”, “quân nước ngoài”,… cũng bắt đầu xuất hiện. Cuốn sách “Những sự kiện lịch sử Việt Nam (từ 1945-2010) do hai tác giả Minh An và Bình An biên soạn, NXB Thanh Niên ấn hành quí 4-2010, trong phần tháng 2, 3/1979 không có có một chữ nào nhắc đến cuộc chiến bảo vệ tổ quốc tháng 2/1979.

Với việc giới lãnh đạo CSVN tiếp tục giấu bặt các tấm bản đồ đi kèm với Hiệp Định Biên Giới Việt Trung suốt từ năm 1999 đến nay, phần lớn công luận tin rằng họ đã chính thức nhượng hẳn các vùng bị lấn chiếm suốt thập niên 1979-1989 cho Bắc Kinh.

Sang thế kỷ 21, với 4 tốt, 16 chữ vàng được TQ ban cho, thì ngành ngoại giao CSVN bỗng nhiên có nhiều quan chức không mệt mỏi bênh vực cho quan điểm bành trướng và xâm lăng của TQ. Nhiều vùng đất, vùng biển của VN đã hàng ngàn năm bỗng dưng trở thành “vùng tranh chấp” với TQ để được thương thảo phân chia lại. Phần nào thuộc TQ thì TQ giữ, phần nào của VN thì cả 2 nước “khai thác chung”. Thứ trưởng ngoại giao CSVN khẳng định Ải Nam Quan chưa bao giờ là đất Việt Nam.

Nhưng nhẫn tâm hơn cả, tại các tỉnh phía Bắc, nơi xảy ra cuộc chiến, các nghĩa trang tử sĩ hy sinh bảo vệ tổ quốc đều đìu hiu hoang vắng. Những nấm mồ tử sĩ đều hương tàn khói lạnh, không ai chăm sóc. Những tấm bia ghi lại lý do của sự hy sinh cao cả của họ đều bị đập phá, đặc biệt những tấm có ghi dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược”. Trong khi đó, các quan chức Việt dọc biên giới được lệnh kéo từng đoàn sang bên kia biên giới hàng năm với các vòng hoa mang băng chữ “Đời đời nhớ ơn liệt sĩ TQ”. Và đến tận hôm nay, các khẩu hiệu phải nhớ ơn TQ tương tự cũng được các cán bộ tuyên giáo nhắc nhở trong những buổi giảng dạy cho đảng viên các cấp.

Và không chỉ cuộc chiến 1979 biến mất trong sử sách, dưới sự chỉ đạo của đảng CS Việt Nam, Bộ Giáo Dục Đào Tạo còn cải tổ các sách giáo khoa để học sinh không còn biết tổ tiên Việt Nam đã chống lại quân xâm lược nào suốt 5000 năm trước.

Nhà cầm quyền Việt Nam có ý định xóa sạch lịch sử khỏi hệ thống giáo dục, mà vốn đã không hề có mặt pháp luật trong đó, thì có nghĩa thực đã đến thời mạt vong của dân tộc, của quốc gia Việt Nam.

KẾT

Trước tình hình hiện nay, những ai là người có lương tri phải có trách nhiệm giữ gìn quê hương, Tổ quốc Việt Nam và khơi dậy cả sử sách Việt.

Kiến nghị Bộ Giáo Dục Đào Tạo đưa sự kiện này vào thành chương/ phần trong giáo trình chuẩn quốc gia tại các cấp học, giống như đã làm với các cuộc kháng chiến khác. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần biên soạn một chương riêng về 2 cuộc chiến tranh biên giới 1979 & 1984, đưa vào hệ thống giáo trình chuẩn quốc gia (phổ thông, đại học, và sau đại học…).

Đảng & nhà cầm quyền Việt Nam phải có trách nhiệm tổ chức kỷ niệm trang trọng 2 chiến thắng oanh liệt này hàng năm. Rà soát tổng kiểm kê lại những người có công trong cuộc kháng chiến chống Trung Cộng xâm lược tháng 2/1979 & tháng 4/1984.

Chúng ta được sống hưởng hạnh phúc, bình yên trên sự sinh hy lớn lao của những người đã khuất.

Đảng & Chính quyền Việt Nam đừng làm kẻ vô ơn, bạc nghĩa và bất nhân, dẫu là trong một thời khắc nhỏ nhất.

1 nhận xét: